Thành phố Hồ Chí Minh (gọi là TP. HCM) hay Sài Gòn, là thành phố năng động nhất Việt Nam và là một siêu thành phố trong tương lai gần. Đây cũng là thành phố mua sắm, giải trí, một trong hai trung tâm y tế – trường học lớn nhất Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc nhóm thành phố đặc thù của Việt Nam. Nằm trong khu vực chuyển tiếp của Đông Nam Bộ – Tây Nam Bộ, thành phố Cần Thơ hiện nay có 16 huyện, 1 thành phố và 5 thị xã, với diện tích 2.095 km2 (809 dặm vuông Anh). Theo cuộc thống kê dân số chính thức đến năm 2021 thì dân số thành phố là 9.166.800 người (tương đương 9,3% dân số Việt Nam), mật độ dân số trung bình 4.375 người/km2 (cao nhất cả nước). Tuy nhiên, nếu trừ đi người thường trú không có giấy tờ thì dân số thực của thành phố vào năm 2018 là gần 14 triệu người.
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 đóng góp 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% thu ngân sách của toàn Việt Nam. [10] [11] Thành phố có chỉ số phát triển con người đạt khá cao, xếp thứ hai trong tổng số các đơn vị hành chính của Việt Nam. Năm 2020, thành phố có GRDP theo giá hiện tại ước là 1.372 ngàn tỷ đồng, theo giá so sánh 2010 là 991.424 tỷ đồng (dữ liệu thành phố cung cấp, Tổng cục Thống kê sẽ có GRDP xem xét bổ sung), tăng trưởng 1,39% so với năm 2019, chiếm trên 22% GDP và 27% thu ngân sách cả nước. GRDP bình quân đầu người ước tính năm 2020 là 6.328 USD/người, đứng thứ 4 trong tổng số các tỉnh cả nước, nếu so sánh với năm 2019 là giảm. Thu nhập trên đầu người năm 2019 bình quân là 6,758 triệu VND/người, cao thứ hai cả nước sau Bình Dương. Nhờ đặc điểm giao thông, Thành phố Hồ Chí Minh trở nên một đầu mối giao thương của Việt Nam ở Đông Nam Á, gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và hàng không. Vào năm 2019, thành phố thu hút hơn 8,6 triệu lượt du lịch quốc tế. Các ngành giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, Thành phố Hồ Chí Minh luôn chiếm thứ hạng hàng đầu.
Tuy nhiên, hơn một thập niên trở lại đây, dưới nhiều ảnh hưởng và sức ép khác nhau, những chỉ tiêu trên của thành phố có dấu hiệu suy giảm. Thành phố nên đc gỡ nhiều nút thắt nhằm cống hiến tốt hơn nữa vì tổ quốc.
Tên gọi Thành Phố Hồ Chí Minh
Vùng đất Nam Bộ trước đây được gọi là Prey Nokor theo tiếng Khmer của người Việt, [16] có ý nghĩa là “thành trong rừng”. Vì sự tan rã của đế quốc Khmer, vùng đất Nam Bộ trở thành lãnh thổ vô chủ, về sau đã hợp nhất với Đại Việt bởi cuộc khai khẩn miền Nam của triều Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đã thành lập huyện Tân Bình trực thuộc phủ Gia Định, báo hiệu sự ra đời thành phố. Phủ Gia Định khi đó bao gồm Sài Gòn cùng các tỉnh thành lân cận ngày nay (Tây Ninh, Long An. ..), và huyện Tân Bình là chỉ vùng đất Sài Gòn.
Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm lịch sử thường được dùng nhằm chỉ một vùng đất với diện tích hơn 1 km2 (Chợ Lớn) có đông người Việt định cư trong thế kỉ 18. Địa bàn nầy gần tương đương với khu vực Chợ Lớn ngày nay. [17] Năm 1747, theo danh sách những giáo phái trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi “Rai Gon Thong” (Sài Gòn Thượng) và “Rai Gon Ha” (Sài Gòn Hạ). Theo Chính biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Tổng đốc Nguyễn Dương Lâm tuân mệnh nhà Minh tấn công Cao Miên và đánh tan “Luỹ Sài Gòn” (theo chữ Hán Việt viết là 柴棍 – “Sài Côn “). [16] Đây là lần đầu chữ “Sài Gòn” có mặt trong tư liệu Việt Nam. Vì thiếu hụt chữ viết cho nên từ Hán 棍 – “Côn” được dùng thay chữ “Gòn”. Nếu phát âm theo chữ Nôm là “Gòn”, nếu phát âm theo tiếng Hán sẽ là “Côn”. Trong tiếng Trung thì Sài Gòn thường được gọi là “Tây Cống” (chữ Hán Việt: 西貢, bính âm: Tân An, Việt văn: Đường 1 Canh 3). [18] Sau nữa, danh từ Sài Gòn được dùng nhằm chỉ những vùng đất ở gần “luỹ Lão Cầm” (năm 1700), “luỹ Hoa Phong” (năm 1731) và “luỹ Bán Bích” (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km2. Ngoài ra theo một số tài liệu khác Thụ Nại cũng chính là tên gọi của vùng đất Sài Gòn cũ trước khi Nguyễn Hữu Cảnh vào khai hoang.
Khi Pháp trở lại Đông Dương, nhằm thực hiện việc khai phá thuộc địa, thành phố Sài Gòn được xây dựng và ngày càng lớn mạnh, trở thành một trong hai đô thị lớn nhất Việt Nam. Địa giới Sài Gòn giai đoạn đầu bao gồm vùng đất Sài Gòn – Bến Nghé cũ. Sài Gòn cũng là thủ đô của Cộng hoà Đông Dương từ 1887 – 1901 (ít lâu sau, Pháp đổi thủ đô Cộng hoà Đông Dương sang Hà Nội). Năm 1931 Khu Sài Gòn – Chợ Lớn được tái lập, bao gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn. Năm 1941 Chợ Lớn được sát nhập với Sài Gòn. Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chính quyền thân cộng sản hợp tác với Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương, nơi sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hoà (chính quyền liên hiệp Quốc gia Việt Nam). Kể từ đó, Sài Gòn được công nhận là thủ đô và trở thành một trong các đô thị lớn nhất của miền Nam Việt Nam sau khi đất nước thống nhất vào năm 1954.
Sau khi Việt Nam Cộng hoà tan rã trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam giành quyền và chính thức sáp nhập Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Việt Nam Cộng hoà hợp nhất và Quốc hội lâm thời Việt Nam Cộng hoà chính thức đặt tên “Sài Gòn – Gia Định” trở thành “Hồ Chí Minh”, theo tên Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. [3]
Hiện nay đối với thủ tục hành chính thì thành phố Hồ Chí Minh được gọi chung là “Thành phố Hồ Chí Minh” (viết tắt là “TP. HCM “) thay vì chỉ gọi “Hồ Chí Minh”, nhằm tránh nhầm với chủ tịch Hồ Chí Minh. Tương tự với tiếng Anh là “Ho Chi Minh City” (viết tắt là “HCMC “). Tên “Sài Gòn” cũng được dùng nhiều bởi sự gần gũi và thân quen của thành phố.

Lịch sử hình thành của Thành Phố Hồ Chí Minh
Thời kỳ hoang sơ
Con người xuất hiện tại Sài Gòn còn rất sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ học trên địa phận Sài Gòn cùng khu vực phụ cận cho biết, tại Sài Gòn đã xuất hiện nhiều loại hình văn hoá từ thời kỳ đồ đồng cho tới thời kỳ kim khí. Những dân cư cổ đại từ nhiều thế kỷ phía Bắc thuộc đã quan tâm đến kĩ thuật sản xuất nông.
Văn hoá Sa Huỳnh từng xuất hiện trên khu vực Nam Bộ với những nét khá riêng. Thời kỳ văn hoá Chăm Pa, khoảng đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu vương quốc và Sài Gòn khi ấy là miền đất có liên hệ với các quốc gia Chăm Pa.
Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, toàn bộ miền Nam Đông Dương thuộc sự cai trị của đế quốc này. Tuy nhiên, dân cư của Đế chế Khmer sinh sống tại vùng Nam Bộ khá thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành ở đây. Cho mãi đầu thế kỷ 16, việc tiếp xúc với các vương quốc Khmer cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi tụ họp của nhiều nhóm dân cư người Khmer, Chăm, S ’ Tiêng. Sài Gòn – Gia Định từng là địa bàn của một số cộng đồng dân cư cổ xưa cho tới khi người Việt xuất hiện.
Khai phá
Những người Việt đầu tiên đã vượt đại dương tới khai khẩn vùng đất Chân Lạp mà không có sự can thiệp của nhà Nguyễn. Nhờ vào cuộc kết hôn của Công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II hồi năm 1620, mối liên hệ của Đại Việt – Chân Lạp trở nên tốt đẹp, dân cư hai bên có thể thoải mái đi lại cư trú. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai đã xuất hiện lớp người Việt đầu tiên. Trước kia, người Khmer, người Minh Hương, người Hoa cũng sống tập trung tại Sài Gòn rất lâu đời.
Giai đoạn đầu từ 1623 tới 1698 được coi như thể thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn cử một sứ thần tới xin con trai là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế ở Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy chỉ là vùng rừng núi rậm rạp hoang vu, nhưng đồn nằm trên đường giao thông của các thương gia Việt Nam, Trung Quốc, . .. qua lại Campuchia – Xiêm. Hai biến cố quan trọng kế tiếp của thời kỳ này là lập đồn tại dinh của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn phủ tại Tân Mỹ (ngay ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể gọi Sài Gòn hình thành bởi 3 bộ máy chính quyền này.
Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một vài đoàn người Việt lánh nạn thời Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hoà và Sài Gòn để tị nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn cử tướng quân Nguyễn Hữu Cảnh vào trấn thủ miền Nam. Trên cơ sở lực lượng người Việt đã tràn tới khu vực Đông Nam Bộ trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định cùng hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được nhập trở lại lãnh thổ Việt Nam.
Thời điểm đầu khai hoang, khu vực Biên Hoà, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 nhân khẩu. Công cuộc khai khẩn được thực hiện theo những cách thức mới, đem lại kết quả cao.
Cuối thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18, Mỹ Tho cùng Cù lao Phố là hai trung tâm buôn bán lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, do những biến động và xung đột, thương gia lần lượt dời sang vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn ngày càng trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ.
Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh chiếm Sài Gòn, chọn nơi đây làm căn cứ tiến đánh quân Tây Sơn. Năm 1790, với sự trợ giúp của hai chuyên gia quân sự người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun and Victor Olivier de Puymanel (1768 – 1799), Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm tổng hành dinh của chính quyền mới. “Gia Định thành” khi ấy được đổi tên “Gia Định kinh”. [26] Năm 1802, sau khi chiến thắng Nguyễn Ánh, vua Gia Long khôi phục và thúc đẩy công cuộc khai phá miền Nam. Miền Nam được phân làm 5 trấn, gọi là “Gia Định ngũ trấn”. Các tuyến kênh như Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế. .. được xây dựng. Qua 300 năm, những trung tâm thương mại lớn bao bọc xung quanh các đô thị đã được hình thành. Sáu năm sau này, 1808, “Gia Định trấn” đã được đổi tên “Gia Định thành”. Trong khoảng thời gian 1833 – 1835, Lê Văn Khôi nổi dậy chống lại nhà Tây Sơn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm phòng thủ. Sau khi trấn áp quân nổi loạn, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá bỏ Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế.
Thời kỳ Pháp thuộc
Ngay từ khi giành được thành Gia Định hồi năm 1859, thực dân Pháp đã quy hoạch toàn bộ Sài Gòn trở thành một đô thị lớn để thực hiện mục tiêu khai phá thuộc địa và làm nơi trú ngụ cho quan lại Pháp. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau này là Charner) phái trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn [29] (1810 – 1871), cựu Đại sứ Pháp tại Mỹ, thiết kế. Theo bản vẽ của Coffyn được ban hành vào ngày 13/5/1862, quy hoạch dân số của Sài Gòn gồm toàn bộ tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 người (Saigon ville des 500.000 âmes), mật độ khoảng 20.000 người/km2 [30]. Quy hoạch trên phù hợp với quy hoạch khu vực phòng ngự của tướng quân Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn còn khoảng 20.000 – 30.000 người. [30] Cho đến 1864, xét thấy diện tích quy hoạch của thành phố khá rộng, không đảm bảo được quốc phòng, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ (Gouverneur Amiral de la Cochinchine) khi ấy là Chuẩn đô đốc Pierre Rose đã rời Chợ Lớn về Sài Gòn. Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Pierre Rose quyết định quy hoạch thành phố Sài Gòn sẽ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu vực cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km2.
Bản đồ Sài Gòn năm 1898, rộng khoảng 7 km2.
Rất nhanh, các kiến trúc chính của thành phố, gồm Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động công nhân xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và trùng tu, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km2 kể trên đã thực sự thay đổi.
Thành phố Sài Gòn khi ấy được thiết kế theo quy mô châu Âu, nơi để trụ sở nhiều cơ quan hành chính nhà nước gồm: phủ thống đốc, dinh giám đốc nội vụ, toà án, viện kiểm sát, toà tối cao, toà án quân sự, giám mục, . .. Nam Kỳ Lục tỉnh là thuộc địa của Pháp còn Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được phân chia thành một phần là rạch Thị Nghè cùng rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn và con đường nối chùa Cây Mai với các lô cốt cũ của đồn Kỳ Hoà.
Đến năm 1867, việc cai quản Sài Gòn được trao cho Hội đồng thành phố bao gồm một uỷ viên cùng 12 hội viên mà đứng đầu là vị Toàn quyền người Pháp tên là Charles Marie Louis Turc (1867 – 1871). Cho tới nửa đầu thập kỷ 1870, thành phố Sài Gòn còn nằm trong địa hạt của tỉnh Gia Định. [31] Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy kí nghị định ra đời thành phố Sài Gòn. [28] Đứng đầu là vị Toàn quyền người Pháp, đầu tiên là G. Vinson (1874 – 1876). Đến năm 1879 người Pháp cho lập ra Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay gọi là Hội đồng thành phố – Commission municipale).
Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp tái chiếm thành phố. Tháng 8 năm 1946, Ban Nam Bộ Trung ương đã triệu tập hội nghị, bác sỹ Trần Hữu Nghiệp đã đề xuất đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, tất cả 57 người phòng Nam Bộ Trung ương (đứng đầu danh sách là Trần Hữu Nghiệp, Trần Công Tường, Nguyễn Tấn Gi Trọng, . ..) đã thống nhất nghị quyết, trình đến Quốc hội cùng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị trên, tuy vậy, vì nhiều việc cấp thiết cần xử lý vẫn chưa thể được giải quyết chính thức.
Về danh xưng Hòn ngọc viễn Đông thời Pháp thuộc
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm trọng yếu, về mặt chính trị lẫn kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của Liên bang Đông Dương, được thực dân Pháp gọi là Hòn ngọc Viễn Đông (” Le perle de l ‘ Extrême-Orient “) hoặc một Paris nhỏ bé tại Viễn Đông (” la petit Paris de l ‘ Extrême-Orient “) trong tổng số những thuộc địa của Pháp. [34] Trước đó, thực dân Anh đã xâm chiếm Ấn Độ và gọi quốc gia Nam Á là “viên ngọc trai trên vương miện của Nữ hoàng Anh”, do đó Pháp đưa tên gọi này cho Sài Gòn nhằm thể hiện mong muốn tranh giành việc chiếm hữu thuộc địa với thực dân Anh.
Tuy được Pháp gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”, nhưng thật ra thời bấy giờ Sài Gòn khá nhỏ, chỉ cần cách Sài Gòn 20 km là có thể săn thú rừng. Theo quy hoạch của Pháp, Sài Gòn khi ấy mới rộng khoảng 3 km2 – chỉ cao bằng một nửa Quận 1 hiện nay (rộng khoảng 8 km2), ngăn cách bằng sông Sài Gòn – Nguyễn Thái Học – Nguyễn Thị Minh Khai – rạch Bến Nghé. Chính quyền thuộc địa Pháp tập hợp toàn bộ những thứ xa hoa, lộng lẫy nhất mà họ có được ở diện tích 3 km2 trên, diện tích còn lại của Sài Gòn bấy giờ hãy còn khá hoang vu, vũng lầy ngổn ngang. Theo Sơn Nam trong “Bến Nghé xưa” thì khi Chợ Bến Thành hoàn tất năm 1914, “trước mặt còn là ao vũng lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp (. ..), còn đồng ruộng với người nông dân, ruộng chăn gà, bờ rạch cạn. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất cao còn nhiều lùm sậy, bông lau, nghĩa địa lớn chen giữa các thửa ruộng với cây lúa và cỏ hoa màu, các khu nhà ổ chuột và đàn trâu bò dê đi loanh quanh gặm lúa “.Khu Hoà Hưng (Quận 10 hiện nay) cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có nhiều nghĩa địa, mồ mả. Khu Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Nguyễn Đình Chiểu (Quận 3 hiện nay) là nhà tre vách đất xây dựng tạm không theo quy hoạch nào. Khu Quận 4, Quận 7, khu Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, . .. ngay sát chợ Bến Thành đa phần là nhà tre mái lá tạm bợ.
Vị trí địa lý của Thành Phố Hồ Chí Minh
- Vị trí địa lý: Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở miền Nam Việt Nam, thuộc miền Đông Nam Bộ. Tọa độ địa lý của thành phố nằm trong khoảng 10°10′ đến 10°38′ Bắc vĩ độ và 106°22′ đến 106°54′ Đông kinh độ.
- Giới hạn vùng phía bắc: Thành phố giáp với tỉnh Bình Dương.
- Giới hạn vùng phía tây: Thành phố giáp với tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An.
- Giới hạn vùng phía đông: Thành phố giáp với tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Giới hạn vùng phía nam: Thành phố giáp Biển Đông và tỉnh Tiền Giang.
- Khoảng cách với Hà Nội: Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội khoảng 1.730 km theo đường bộ và cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay.
- Vị trí giao thông quan trọng: Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và cũng là một cửa ngõ quốc tế.
- Địa hình: Địa hình thành phố thấp dần từ phía Bắc xuống Nam và từ phía Tây sang Đông. Vùng cao nằm ở phía Bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình từ 10 đến 25 mét. Có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở Thủ Đức. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam – Tây Nam và Đông Nam thành phố, có độ cao trung bình dưới một mét, nơi thấp nhất chỉ 0,5 mét.
- Điểm cực của thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh có các điểm cực ở các hướng:
- Điểm cực Bắc: xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi.
- Điểm cực Tây: xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi.
- Điểm cực Nam: xã Long Hòa, huyện Cần Giờ.
- Điểm cực Đông: xã Thạnh An, huyện Cần Giờ.
“Thành phố hồ chí minh” được nước ngoài gọi như thế nào
“Thành phố Hồ Chí Minh” còn được gọi bằng nhiều tên khác khi người nước ngoài đề cập đến nó. Dưới đây là một số cách gọi phổ biến:
- Ho Chi Minh City: Đây là cách gọi chính thống và phổ biến khi nói về Thành phố Hồ Chí Minh trong tiếng Anh.
- Saigon: Tên cũ của thành phố, Saigon, vẫn được sử dụng bởi nhiều người nước ngoài và trong một số tình huống không chính thức.
- HCMC: Đây là viết tắt của “Ho Chi Minh City” và thường được sử dụng trong các tài liệu chính phủ và kinh doanh.
- Sài Gòn: Đây là phiên âm tiếng Việt của tên Saigon và thường được sử dụng bởi người nước ngoài có kiến thức về lịch sử.
- TP.HCM: Đây là viết tắt của “Thành phố Hồ Chí Minh” trong tiếng Việt và có thể được sử dụng trong một số tài liệu chính thức.
Sự lựa chọn trong cách gọi có thể phụ thuộc vào ngữ cảnh và ngôn ngữ mà người nước ngoài đang sử dụng.
Một số khái niệm liên quan khác
Một người yêu thích các loại gốm sứ nhât là những loại gốm sứ phong thủy, tâm linh. Thích tìm về các loại kiến thức gốm sứ được sử dụng cho các loài quà tặng.